I. Phần Đọc hiểu (4,0 điểm)

Đọc văn bản:

ĐẠO SĨ NÚI LAO

Trong ấp (huyện) có chàng họ Vương, vào hàng thứ bảy, là con nhà cổ gia, tuổi trẻ mộ đạo, nghe nói trên núi Lao Soll cả một vị tiên, liền quầy tráp tới thăm. Trèo lên hết một ngọn núi, thấy một nhà quản, um tùm cây mát. Một vị đạo sẽ2 ngồi trên bồ đoàn” tóc trắng rủ xuống tận cổ, tinh thần sắc sảo. Sinh khẩu đầu làm lễ, bắt chuyện, thấy đạo lí huyền diệu, bèn tôi làm thầy.

Đạo sĩ nói:

Chỉ sợ anh sức yếu, không chịu nổi khổ nhạc.

Thưa là: “được”.

Học trò đạo sĩ rất đông, sẩm tối mới kéo nhau về. Vương cùng họ củi đầu làm lễ chào nhau, rồi quyết định ở lại trong quản

Sáng tinh sương, đạo sĩ đã gọi Vương dậy, đưa cho chiếc rìu, bảo theo lũ học trò đi hải củi. Hơn một tháng, tay chân phỏng mọng, đau không chịu nổi, có bụng muốn về. Một buổi chiều, về đến quản, thấy đạo sĩ đang ngồi uống rượu với hai người khách. Trời đã tối mà chưa thấy thắp đèn, đốt lửa gì cả. Đạo sĩ bèn cắt một miếng giấy tròn như tấm gương, dẫn lên vách. Phút chốc, ảnh trăng vằng vặc tử trên vách chiều xuống, sáng rõ cả ngọn cỏ, sợi tơ. Bọn học trò chạy quanh hầu hạ Một người khách nói:

– Đêm nay trời đẹp, cùng nhau vui uống, nên cho ai nấy đều vui.

(1) Núi Lao Sơn: ngọn núi nổi tiếng ở phía đông nam tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. (2) Đạo sĩ người tu tiên.

(3) Bồ đoàn: chiếc chiếu đan bằng có bồ, hình tròn, để người đi tu hành quỷ hoặc ngồi cho êm, mỗi khi hành lễ.

Bèn cầm hồ rượu trên bàn, rải cho bạn học trò đứng hầu, dặn mọi người nên uống thật say. Vương nghĩ bụng hồ rượu nhỏ như thế mà chia ra bảy, tám người, làm sao cho đủ. Thấy bạn chủng, đứa cầm chén, đưa vào chậu, tranh nhau uống trước, như sợ mất hết, không tới lượt mình. Vậy mà rất hết chén này đến chén khác, vẫn chẳng thấy rượu vơi đi chút nào, bụng thầm lấy làm lại.

Bỗng một vị khách nói:

– Dưới trăng đẹp mà uống suông mãi cũng buồn. Sao chẳng mời chị Hằng xuống chơi?

Đạo sĩ bèn lấy một chiếc đũa, viết vào giữa Mặt Trăng. Bỗng thấy một người đẹp từ trong bằng sáng bước ra: lúc mới đến, chưa đầy một thước, mà vừa đặt chân đến đất thời cao lớn như người thưởng, lưng thon thả, cổ trắng muốt, áo quần pháp phải, uyển chuyển mùa khúc Nghệ Thường… []

Vương thích lắm, đem lòng kinh mộ đạo sĩ, bụng muốn về cũng tiêu tan.

Lại qua một tháng nữa, khổ không kham, mà đạo sĩ vẫn chưa truyền cho một phép gì. Sốt ruột quá, bèn lên cáo từ, xin về:

– Đệ tử qua mấy trăm dặm đường tới xin học thấy; đầu chẳng học được cải đạo trường sinh bất tử, cũng mong thầy dạy cho chút gì gọi là hả chút lòng cầu học. Thế mà qua hai, ba tháng, chỉ những sáng đi kiếm củi, tối lại trở về. Hồi ở nhà, đệ tử chưa bao giờ khổ như thế.

Đạo sĩ cười, bảo:

– Ta đã nói trước là anh không chịu nổi khó nhọc, nay đã quả nhiên. Sáng mai, sẽ cho người dẫn anh về.

Vương lại nài nỉ:

– Đệ tử làm lụng đã nhiều, xin thầy dạy cho một thuật mọn, khỏi phụ công lao đệ tử lặn lội tới đây.

Đạo sĩ hỏi muốn cầu thuật gì, Vương nói:

– Thường thấy thầy đi đâu, tưởng vách không ngăn nổi, chỉ xin một phép ấy cũng đủ lắm.

Đạo sĩ cười, nhận lời. Bèn dạy cho phép bắt quyết”, bảo miệng đọc mấy câu thần chủ, rồi hộ: “Vào đi! Vào đi!”. Vương đối mặt với bức tường, nhưng ngần ngừ không dám vào. Đạo sĩ lại hộ rằng:

— Cử vào đại thử coi!

(1) Bắt quyết: dùng ngón tay đan chéo vào nhau kết thành chữ để làm phép.

Vương theo lời, thong thả tiến lại, nhưng đến tưởng bị vấp. Đạo sĩ bảo củi đầu, vào thật nhanh, đừng rụt rè. Vương bước xa bức tường mấy bước, đọc câu thần chú, bước nhanh tới, cảm thấy như chỗ trống không. Quay nhìn lại thì đã thấy mình ở bên kia tưởng. Ming quả, vào lạy tạ xin về

Đạo sĩ nói:

– Về nhà phải giữ gìn đứng đắn; không thể thì phép không nghiệm nữa đâu. Nói rồi, cấp tiền cho Vương ăn đường mà về.

Đến nhà, chàng khoe đã gặp tiên, tưởng vách dày đến đâu cũng không ngăn nổi. Vợ không tin. Vương theo như cách đạo sĩ đã dạy, cách tưởng mấy bước, củi đầu chạy ù vào. Đầu đập tường củng ngã lăn đùng. Vợ nâng dậy, nhìn xem, thấy trận sưng bươu bằng quả trứng. Vợ chế giễu mãi. Vương vừa thẹn vừa tức, chửi mãi lão đạo sĩ bất lương.

Thực hiện các yêu cầu sau:

(Bồ Tùng Linh, Liêu trai chí dị (Nguyễn Đức Lân dịch), NXB Văn học, Hà Nội, 2006, tr. 20 – 23)

Câu 1: Hãy dẫn ra một chi tiết thể hiện rõ yếu tố “kì” trong văn bản truyện trên. Câu 2. Mục đích và kết quả của việc tu tiên học đạo của Vương Sinh là gì? Câu 3. Vì sao nói truyện có kết thúc bất ngờ? Kết thúc truyện như thế có ý nghĩa thế nào?

Câu 4: Đặc điểm chung của các câu in đậm dưới đây là gì? Việc sử dụng những kiểu câu đó có tác dụng gì?

– Đạo sĩ nói:

Chỉ sợ anh sức yếu, không chịu nổi khó nhọc.

Thura là: “dirge”.

− Vương bước xa bức tường mấy bước, đọc câu thần chủ, bước nhanh tới, cảm thấy như chỗ trống không. Quay nhìn lại thì đã thấy mình ở bên kia tưởng. Mừng quả, vào lạy tạ xin về

Câu 5: Hãy chỉ ra sự khác biệt giữa yếu tố kì ảo trong văn bản truyện Đạo sĩ núi Lao với yếu tố kì ảo trong một truyện thần thoại mà anh / chị đã học (đọc).

II. Phần Viết (6,0 điểm)

Câu 1: (4,0 điểm)

Một nghiên cứu gần đây về thế hệ Trẻ Việt Nam đã chỉ ra rằng: Người Việt trẻ — ít nhất là những người sống ở thành thị – cho thấy sự chuộng các giá trị cả nhân,

trái ngược với các giả trị tập thể. Khi được hỏi, họ cho biết những mối quan hệ cộng đồng lỏng lẻo như quan hệ hàng xóm chẳng hạn đã suy yếu kể từ thế hệ cha mẹ họ Cùng với sự phổ biến của những loại hình giải trí ảo và các thiết bị di động, giỏi trẻ cảm t

hấy những giao lưu trực tiếp đã giảm dần,

(Hội đồng Anh, Bảo cáo nghiên cứu thế hệ Trẻ Việt Nam,

 dẫn theo britishcouncil.vn)

Anh / Chị suy nghĩ gì về nhận định trên? Hãy viết bài nghị luận (khoảng 600 chữ) trình bày những phân tích, bình luận của bản thân về vấn đề mà nghiên cứu trên đã nêu.

Câu 2: (2,0 điểm)

Viết đoạn văn nghị luận (khoảng 200 chữ) phân tích, đánh giá vai trò của yếu tố kì ảo trong văn bản truyện truyền kì Đạo sĩ núi Lao ở phần Đọc hiểu.

Lời giải:

I. Phần Đọc hiểu (4,0 điểm).

Ngữ liệu đọc hiểu là văn bản truyện truyền kì.

Câu 1:

Dẫn ra một chi tiết thể hiện rõ yếu tố “kì” trong văn bản truyện, ví dụ:

Đạo sĩ bên cất một miếng giấy tròn như tấm gương, dân lên vách. Phút chốc, ánh trăng vằng vặc từ trên vách chiếu xuống, sáng rõ cả ngọn cỏ, sợi tơ.

Đạo sĩ bèn lấy một chiếc đùa, vứt vào giữa Mặt Trăng. Bồng thấy một người đẹp từ trong bóng sảng bước ra.

Hoặc:

Đạo sĩ cỏ thuật “đi đâu, tưởng vách không ngân nổi”.

Câu 2:

Mục đích tu tiên học đạo của Vương Sinh là học được phép thuật của vị tiên trên núi,

Kết quả: Học được thuật đi xuyên tường vách nhưng khi về nhà lại không thể thực hiện được, chẳng những cơ thể bị đau đớn mà còn xấu hổ vì bị vợ chẽ cười.

Câu 3:

Truyện có kết thúc bất ngờ vì phần kết thúc không có hậu dành cho Vương Sinh. Sau nhiều ngày kham khổ tưởng rằng học được một thuật nhỏ đề về áp dụng nhưng kết quả lại không được như mong muốn.

– Ý nghĩa của kết truyện: học đạo là để giúp đời, làm những việc có ích nên không thể áp dụng phép thuật một cách tuỳ tiện hay để chỉ để khoe khoang; muốn đắc đạo, cần bền gan vững chí, sẵn sàng đối diện và vượt qua gian khổ.

Câu 4:

– Các câu in đậm đều là câu rút gọn thành phần chủ ngữ. Đây là một trong những biểu hiện của hiện tượng phá vỡ những quy tắc ngôn ngữ thông thường.

– Tác dụng: nhấn mạnh, làm nổi bật nội dung thông tin cần chuyển tải (ở đây là lời nói, hành động của nhân vật Vương Sinh).

Câu 5:

HS có thể chọn truyện thần thoại theo hiểu biết cá nhân nhưng cần chỉ ra sự khác nhau sau đây: – Ở truyện thần thoại, yếu tố kì ảo chủ yếu nhằm giải thích nhận thức, cách lí giải của người cổ đại về các hiện tượng tự nhiên, vũ trụ; thường gần với thần lính.

– Với truyện truyền ki, yếu tố kì ảo góp phần tạo nên những nhân vật, hành động khác (bất) thường, qua đó, phản ảnh những vấn đề của đời sống trần thể, hằng ngày của con người; không chỉ gắn với thế giới thần tiên mà còn thể hiện ở ma, quỷ.

II. Phần Viết (6,0 điểm)

Câu 1: (4,0 điểm)

HS cần nêu được các ý chính sau đây:

a) Mở bài: Dẫn dắt vả nêu nhận định cần bản luận.

b) Thân bài:

b.1. Thế nào là giá trị cá nhân, giá trị tập thể?

– Giá trị cá nhân là những giá trị (lợi ích, thị hiếu,..) gắn với mỗi con người cụ thể, xuất phát tử tích cách, nhu cầu, sở thích, quan niệm sống, hiểu biết,… của từng người trong từng giai đoạn, hoàn cảnh sống cụ thể.

– Giá trị tập thể là những giá trị (lợi ích, thị hiếu,..) gắn với nhiều người, tổ chức, đơn vị, thậm chí là cộng đồng, xã hội. Nó phản ánh những nhận thức, quan niệm, quy ước, đạo đức, thị hiếu,… chung của một nhóm, bộ phận, cộng đồng người trong xã hội.

b.2. Vì sao nói: Người Việt trẻ – ít nhất là những người sống ở thành thị – cho thấy sự chuộng các giá trị cả nhân, trải ngược với các giá trị tập thể?

– Vì thực tế cho thấy một bộ phận các bạn trẻ ở thành thị đặt những giá trị cá nhân trên giá trị tập thể hoặc coi trọng giá trị cá nhân mà coi thường các giá trị tập thể (Ví dụ: họ thay đổi ngôn ngữ theo hướng dị thường để thoả mãn thú vui, để “theo trend”, để tỏ ra mình không lạc hậu, lạc điệu mà bất chấp việc làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt).

– Có những người trẻ, do chạy theo lối sống hưởng thụ, vật chất, coi vật chất là giá trị lớn nhất nên đã chà đạp, đi ngược lại những giá trị tốt đẹp của cộng đồng (Chẳng hạn: vì tranh giành tài sản mà bất hiếu, bất nghĩa với người thân; vì lợi ích vật chất mà hãm hại bạn bè, đồng nghiệp, thậm chí giết người,…).

b.3. Có đúng là những mối quan hệ cộng đồng lỏng lẻo như quan hệ hàng xóm chẳng hạn đã suy yếu kể từ thế hệ cha mẹ họ… Cùng với sự phổ biến của những loại hình giải trí ảo và các thiết bị di động, giới trẻ cảm thấy những giao lưu trực tiếp đã giảm dần?

– Đúng vậy, quan hệ hàng xóm, nhất là ở các đô thị trong những thập kỉ gần đây

đã không còn chặt chẽ do công việc bận rộn, mưu sinh,…

– Những loại hình giải trí ảo và các thiết bị di động đã khiến cho người trẻ sống ảo nhiều hơn, dấn sâu trong thế giới ảo ngay cả khi đang ở bên cạnh nhau.

b.4. Bình luận

– Cần phân biệt việc chuộng các giá trị cá nhân với việc cần bảo lưu những sở trường, sở thích, thị hiếu… cá nhân vì đó là yếu tố tạo nên bản sắc của mỗi người. – Những giá trị cá nhân cần được tôn trọng nhưng cũng phải hài hoà với các giá trị tập thể.

– Những giá trị tập thể cũng phải có những thay đổi nhất định để theo kịp những yêu cầu của cuộc sống mới, thời đại mới.

– Cũng có những bạn trẻ sống ở thành thị vẫn giữ được các giá trị tập thể, nhất là giá trị truyền thống của gia đình, dòng họ,… bên cạnh việc duy trì các giá trị cá nhân.

c) Kết bài:

– Nhận định trên có nhiều điểm đúng đắn, phản ánh khá chính xác những biểu hiện của người Việt trẻ, nhất là một bộ phận sống ở đô thị.

– Nhận định là hồi chuông cảnh tỉnh xã hội, những người làm công tác giáo dục và các bạn trẻ phải có những giải pháp để dung hoà các giá trị nói trên, vừa góp phần kiến tạo những cộng đồng văn minh, vừa bảo lưu được bản sắc cá nhân.

Câu 2: (2,0 điểm)

HS cần nêu được các ý chính sau đây:

a) Mở đoạn: Yếu tố kì ảo có vai trò quan trọng trong việc thể hiện nội dung và đặc trưng thể loại của văn bản truyện truyền kì Đạo sĩ núi Lao.

b) Thân đoạn:

b.1. Yếu tố kì ảo được thể hiện qua những chi tiết nào?

– Vầng trăng sáng vằng vặc được tạo nên từ miếng giấy cắt hình tròn như tấm gương dán lên vách.

– Hồ rượu nhỏ bao nhiêu người uống cũng không hết.

– Chị Hằng Nga từ trên cung trăng (bằng giấy) bước xuống múa khúc Nghệ Thường; chủ và khách, ba người lên chơi cung trăng.

– Phép đi xuyên tường mà vị tiên dạy Vương Sinh.

b.2. Vai trò của yếu tố kì ảo là gì?

– Thúc đẩy cốt truyện phát triển (không có các chi tiết này, câu chuyện có thể kết thúc ở đoạn Vương Sinh bỏ về sau một tháng lao động kham khô. Vương chứng kiến phép thuật kì diệu của đạo sĩ đã tiếp tục ở lại thêm tháng nữa).

– Giúp nhân vật bộc lộ tính cách (Vương Sinh ham mê học đạo; thích khoe khoang; không bền tâm vững chí).

– Xây dựng một thế giới nhân vật khác thường (thần tiên, đạo sĩ, Hằng Nga) nhưng lại phản chiếu hình ảnh của thế giới con người (ham vui, dung tục).

c) Kết đoạn:

– Yếu tố kì ảo góp phần quan trọng vào việc xây dựng thế giới nhân vật, bộc lộ chủ đề, thông điệp của truyện Đạo sĩ núi Lao.

– Yếu tố kì ảo trong truyện truyền kì mang đặc trưng riêng so với các thể loại khác.